[Daily Stock Calls 28/11/2018] Khuyến nghị MUA VJC, NẮM GIỮ EIB, cập nhật MSH ngày niêm yết đầu tiên trên HOSE

* VCSC khuyến nghị MUA cp VJC (TP: 167);

* HSC khuyến nghị NẮM GIỮ cp EIB (TP: 14.7);

* VDSC cập nhật MSH, ngày niêm yết đầu tiên trên HOSE;

  • VCSC khuyến nghị MUA VJC

    VJC: CTCP Hàng không VietJet

      Giá hiện tại % chang (t-3) P/E P/B
    VJC 126.7 -1.1% 12.62 5.51

    Khuyến nghị dành cho CTCP Hàng không VietJet (VJC) lên MUA với tổng mức sinh lời dự báo đạt 35,4% dù chỉ điều chỉnh tăng giá mục tiêu 6% vì giá cổ phiếu đã giảm 17% trong 3 tháng qua.

    Việc điều chỉnh tăng giá mục tiêu chủ yếu phản ánh tác động của việc điều chỉnh giai đoạn dự báo trong phương pháp định giá tương đối nhằm sử dụng EPS cốt lõi 2019.

    Dự báo LNST cốt lõi Quý 4/2018 sẽ đạt 120 tỷ đồng, thay vì lỗ 243 tỷ đồng như dự báo trước đây nhờ doanh thu khác tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt biên lợi nhuận gộp lên đến 80%-90%. Do đó, chúng tôi điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng EPS cốt lõi 2018 lên 30,2% từ 10,2%.

    Chúng tôi tiếp tục lạc quan về VJC với tiềm năng tăng trưởng mạnh, hiệu suất vận hành cao hơn và quản lý chi phí hiệu quả. Chúng tôi dự báo doanh thu và LNST sẽ đạt tăng trưởng kép hàng năm lần lượt 16,3% và 11,2% giai đoạn 2017-2023, và cho rằng VJC là một cổ phiếu hấp dẫn với PEG cốt lõi 3 năm là 1,1 và PEG 3 năm là 0,6.

    Tiềm năng tăng: các tuyến bay quốc tế đạt tăng trưởng lợi nhuận cao hơn so với dự báo; thành lập được các liên doanh hàng không tại nước ngoài; giá dầu liên tục giảm; bãi bỏ mức trần sở hữu khối ngoại đối với các hãng hàng không.

    Rủi ro: các tuyến quốc tế đạt tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn so với kỳ vọng; cạnh tranh gay gắt hơn so với dự kiến; nhu cầu thị trường không đáp ứng được số lượng máy bay mà VJC đặt; và giá dầu liên tục tăng.

    ————————————————-

    VJC chart. Nguồn: Admin

  • HSC nhận định EIB – Giảm đánh giá từ KHẢ QUAN xuống NẮM GIỮ

    EIB: NHTM CP Xuất nhập khẩu Việt Nam

      Giá hiện tại % chang (t-3) P/E P/B
    EIB 13.5 0.4% 12.25 1.09

    Nhận định KQKD – EIB công bố KQKD 9 tháng đầu năm khá thất vọng chủ yếu do kết quả năm ngoái vẫn quá thấp. Triển vong cả năm khiêm tốn. Giảm đánh giá xuống Nắm giữ.

    Eximbank gần đây đã công bố KQKD hợp nhất 9 tháng đầu năm với LNTT đạt 1.136 tỷ đồng (tăng 148,69% so với cùng kỳ), hoàn thành 71% kế hoạch cả năm. Eximbank vẫn gặp khó khăn trong đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Thực tế, cho vay khách hàng đã giảm 2,71% so với đầu năm. Trong khi đó tiền gửi khách chỉ tăng nhẹ 1,38% so với đầu năm. Tuy nhiên, tỷ lệ NIM được cải thiện nhẹ và tăng 0,1%, theo đó tổng thu nhập lãi thuần tăng 16,88% so với cùng kỳ. Thu nhập ngoài lãi tăng mạnh 74,04% so với cùng kỳ nhờ khoản lợi nhuận không thường xuyên từ thoái vốn tại STB. Chi phí hoạt động tăng vừa phải và chi phí dự phòng giảm 33,80% so với cùng kỳ.

    Kết luận nhanh – Giảm đánh giá từ KHẢ QUAN xuống NẮM GIỮ với ước tính giá trị hợp lý của cổ phiếu mới là 14.700đ, tương đương P/B dự phóng 2018 là 1,2 lần từ ước tính trước đó là 18.000đ (tương đương P/B là 1,5 lần). Cho năm 2018, HSC điều chỉnh giảm dự báo LNTT xuống 1.356 tỷ đồng (tăng trưởng 33,33%) so với mức lợi nhuận thấp trong năm 2017 với giả định cho vay khách hàng tăng trưởng 5,21% và tiền gửi khách hàng tăng trưởng 4%. Cho năm 2019, chúng tôi hiện dự báo LNTT tăng trưởng 20,64% đạt 1.636 tỷ đồng. KQKD 9 tháng đầu năm cho thấy tiến độ tái cấu trúc của EIB còn chậm. Vấn đề chính là dư nợ giảm, tuy vậy ít nhất thì chất lượng tài sản được cải thiện và theo đó tỷ lệ NIM tăng. Tăng trưởng thu nhập hoạt động năm nay vẫn phụ thuộc vào đóng góp của các khoản thu nhập không thường xuyên. Như vậy, Ngân hàng cần cân nhắc lại chiến lược hiện tại để có nguồn thu nhập ổn định cao và từ đó đẩy mạnh trích lập dự phòng.

    Cho vay khách hàng giảm 2,71% so với đầu năm, là 98,57 nghìn tỷ đồng –Cho vay khách hàng giảm mạnh hơn trong quý 3, tiếp theo xu hướng giảm 0,51% so với đầu năm trong 6 tháng đầu năm. Chủ yếu là do các khoản  cho vay bổ sung vốn lưu động ngắn hạn dành cho khách hàng doanh nghiệp giảm. Dư nợ của EIB chỉ tăng trung bình gộp 3%/năm kể từ năm cuối năm 2014, do đó Ngân hàng mất dần thị phần cho các ngân hàng cỡ vừa khác.

    Cụ thể, cơ cấu cho vay theo kỳ hạn:

    • Cho vay kỳ hạn ngắn giảm 11,89% so với đầu năm còn 41,13 nghìn tỷ đồng (tương đương 41,72% tổng dư nợ so với mức 46,07% vào cuối năm 2017).
    • Cho vay trung và dài hạn tăng 5,13% so với đầu năm lên 57,44 nghìn tỷ đồng (tương đương 58,28% tổng dư nợ so với mức 53,93% vào cuối năm 2017).

    Cơ cấu cho vay theo loại tiền:

    • Cho vay tiền đồng giảm nhẹ 1,86% so với đầu năm đạt 88,92 nghìn tỷ đồng, đóng góp 90,21% vào tổng dư nợ (cuối năm 2017 là 89,42%).
    • Cho vay bằng USD giảm 9,89% so với đầu năm đạt 9,65 nghìn tỷ đồng, đóng góp 9,79% vào tổng dư nợ (cuối năm 2017 là 10,57%).

    Tiền gửi khách hàng chỉ tăng 1,38% so với đầu năm đạt 119,16 nghìn tỷ đồng – Tiền gửi khách hàng tăng trở lại sau khi giảm 2,82% so với đầu năm trong 6 tháng đầu năm nhờ EIB nỗ lực tăng huy động tiền gửi có kỳ hạn.  

    Cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn:

    • Tiền gửi có kỳ hạn tăng nhẹ 2,54% so với đầu năm đạt 102,98 nghìn tỷ đồng, đóng góp 86,42% vào tổng vốn huy động (tại thời điểm cuối năm 2017 là 85,45%).
    • Trái lại, tiền gửi không kỳ hạn giảm 4,40% so với đầu năm là 15,47 nghìn tỷ đồng, đóng góp 13,58% vào tổng vốn huy động (cuối năm 2017 là 14,55%).

    Cơ cấu tiền gửi theo loại tiền;

    • Tiền gửi khách hàng bằng tiền đồng tăng 2,92% so với đầu năm đạt 112,41 nghìn tỷ đồng, đóng góp 93,44% tổng tiền gửi (cuối năm 2017 là 92,38%).
    • Tiền gửi khách hàng bằng USD giảm mạnh 18,83% so với đầu năm là 6,75 nghìn tỷ đồng, đóng góp 6,01% tổng tiền gửi (cuối năm 2017 cũng là 6,01%).

    Hệ số LDR thuần giảm xuống 83% từ 86% vào cuối năm 2017 – EIB là một trong những ngân hàng có hệ số LDR thuần thấp nhất trong hệ thống ngân hàng vào cuối tháng 9/2018. LDR thuần bình quân 12 ngân hàng đã niêm yết vào cuối tháng 9/2018 là 96,24% trong khi đó mức trung vị là 91,67%.

    Thu nhập lãi thuần tăng 16,88% so với cùng kỳ đạt 2.307 tỷ đồng với tỷ lệ NIM cao hơn – nhờ tỷ lệ NIM tăng 0,1% lên 2,27% và tổng tài sản sinh lãi tăng 7,91% so với cùng kỳ.

    Trong tài sản sinh lãi, lợi suất gộp giảm 0,09% xuống còn 7,12%. Trong đó, lợi suất gộp cho vay khách hàng tăng 0,45% lên 8,72% nhờ thay đổi trong cơ cấu cho vay với tỷ trọng lớn hơn từ cho vay khách hàng cá nhân khi cho vay trung và dài hạn tăng. Lợi suất gộp cho vay liên ngân hàng giảm 0,52% xuống 2,05% trong khi đó lợi suất trái phiếu giảm mạnh 2,14% xuống còn 2,80%, là mức lợi suất thấp nhất trong số các ngân hàng niêm yết. Lợi suất trái phiếu thấp do EIB có tỷ trọng trái phiếu VAMC lớn trong tổng danh mục trái phiếu đầu tư, là 27,81%. Tuy nhiên, dù không bao gồm trái phiếu VAMC, lợi suất gộp trái phiếu của Ngân hàng thực tế cũng chỉ là 3,73%, là mức thấp dù kỳ hạn bình quân trên danh mục trái phiếu chính phủ của EIB là 2-3 năm. Trong khi đó lợi suất thị trường của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2-3 năm là khoảng 4,4%-4,5%.

    Về cơ cấu nguồn huy động, chi phí huy động bình quân giảm 0,08% – Chi phí huy động tiền gửi khách hàng trong 9 tháng tăng 0,17% so với cùng kỳ lên 5,21%. Trong Q3, chi phí huy động tiền gửi khách hàng tăng 0,33% so với quý liền trước từ 5,12% lên 5,46% do tiền gửi có kỳ hạn tăng. Chi phí vay liên ngân hàng tăng 0,48% lên 3,13%. Trong khi đó chi phí phát hành giấy tờ có giá giảm mạnh từ 13,21% xuống còn 1,74%. Như đã đề cập trong những báo cáo trước đó, EIB đã mua lại 3.000 tỷ đồng vốn cấp 2 phát hành cho 1 TCTD khác kể từ Q1/2018, do đó hầu như danh mục huy động từ phát hành giấy tờ có giá gần như rỗng.

    Tổng thu nhập ngoài lãi tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ lên 1.004 tỷ đồng (tăng 74,04% so với cùng kỳ) – chủ yếu nhờ khoản lợi nhuận không thường xuyên từ thoái vốn tại STB. Không tính đến khoản lợi nhuận thoái vốn này (521  tỷ đồng), tổng thu nhập ngoài lãi chỉ là 483,38 tỷ đồng (giảm 18,73% so với cùng kỳ). Cụ thể:

    • Lãi thuần HĐ dịch vụ tăng nhẹ 7% so với cùng kỳ lên 252 tỷ đồng;
    • Lãi thuần HĐ kinh doanh ngoại hối giảm 26,78% so với cùng kỳ xuống còn 148 tỷ đồng;
    • Thu nhập từ kinh doanh/đầu tư chứng khoán giảm 47,19% so với cùng kỳ xuống còn 82,21 tỷ đồng. EIB có trái phiếu chính phủ lợi suất thấp và do đó không có nhiều cơ hội để mua bán thu lợi nhuận, đặc biệt là khi lợi suất trái phiếu đang tăng.
    • Thu nhập khác giảm nhẹ 7,33% so với cùng kỳ xuống còn 116 tỷ đồng.

    Tóm lại, tổng thu nhập hoạt động là 3.312 tỷ đồng (tăng 29,81% so với cùng kỳ)

    Chi phí hoạt động tăng 15,27% so với cùng kỳ – lên 1.853 tỷ đồng.

    • Chi phí liên quan đến nhân viên tăng 21,17% so với cùng kỳ lên 1.143 tỷ đồng. Trong khi đó số lượng nhân viên chỉ tăng 0,43% so với cùng kỳ lên 6.047 người. Theo đó, lương bình quân hàng tháng cho nhân viên là 21 triệu đồng/tháng (năm ngoái là 17,75 triệu đồng/tháng).
    • Chi phí liên quan đến tài sản gần như giữ nguyên so với cùng kỳ là 324 tỷ đồng (tăng 1,91% so với cùng kỳ).
    • Các chi phí quản lý khác cũng tăng 27,79% so với cùng kỳ lên 286,34 tỷ.
    • Phí bảo hiểm tiền gửi tăng 9,25% so với cùng kỳ lên 91,55 tỷ đồng, tương ứng với lượng tiền gửi tăng 5,18% trong 12 tháng qua.

    Hệ số CIR giảm còn 55,97% từ 63,03% năm ngoái.

    Chi phí dự phòng giảm 33,8% so với cùng kỳ xuống còn 321 tỷ đồng – Trong đó:

    • 159,14 tỷ đồng là chi phí dự phòng nợ xấu thông thường (giảm 45,91% so với cùng kỳ)
    • 159,47 tỷ đồng (giảm 17,18% so với cùng kỳ) là dự phòng trái phiếu VAMC

    Tỷ lệ nợ xấu sau xử lý được kiểm soát tốt ở mức 2,07% – vào đầu năm là 2,27%. EIB mới chỉ xóa 3,38 tỷ đồng nợ xấu trong 9 tháng đầu năm (cùng kỳ năm ngoái là 535,41 tỷ đồng). Nghĩa là EIB đã thu hồi được 260,75 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm, chủ yếu là nợ thuộc nhóm 4. Tại thời điểm cuối Q3:

    • Nợ nhóm 3 chiếm 0,88% tổng dư nợ (giảm 19,6% so với cùng kỳ xuống 867,98 tỷ đồng).
    • Nợ nhóm 4 chiếm 0,13% tổng dư nợ (giảm 30,2% so với cùng kỳ xuống 123,28 tỷ đồng).
    • Nợ nhóm 5 chiếm 1,06% tổng dư nợ (giảm 4,3% so với cùng kỳ xuống 1.046 tỷ đồng).

    Hệ số LLR vẫn ở mức thấp là 59,63% – cải thiện từ mức thấp là 25% tại thời điểm Q2/216 nhưng vẫn thấp hơn so với các ngân hàng khác. Đặc biệt là EIB có 5.741 tỷ đồng trái phiếu VAMC theo mệnh giá (5,82% tổng dư nợ), trong khi Ngân hàng mới chỉ trích lập lũy kế được 1.664 tỷ đồng. Theo đó giá trị trái phiếu VAMC thuần là 4.007 tỷ đồng (bằng 4,14% tổng dư nợ). Với số trái phiếu VAMC này, EIB phải trích lập 574 tỷ đồng mỗi năm với giả định Ngân hàng trích lập trong 10 năm. Chúng tôi cho rằng nếu không thu hồi được nợ xấu trong Q4, EIB sẽ phải trích lập thêm khoảng 400 tỷ đồng cho trái phiếu VAMC.

    Theo đó, LNTT đạt 1.136 tỷ đồng (tăng 148,69% so với cùng kỳ).

    Cho năm 2018, HSC dự báo LNTT tăng trưởng 33,33% đạt 1.356 tỷ đồng LNTT (dự báo trước đó là 1.620 tỷ đồng). Chúng tôi đã điều chỉnh giảm một số giả định chủ chốt và bao gồm cả khoản lỗ phát sinh liên quan đến vụ chiếm đoạt tiền gửi tiết kiệm vào mô hình vì EIB đã trả lại tiền cho khách hàng. Chúng tôi cũng điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng cho vày và huy động cho cả năm 2018. Các giả định chính của chúng tôi cho năm 2018 là:

    (1)  HSC dự báo cho vay khách hàng tăng trưởng 5,21% và đạt 106,63 nghìn tỷ đồng (dự báo trước đây là tăng trưởng 18,24% và đạt 119,81 nghìn tỷ đồng).

    (2)  HSC dự báo huy động khách hàng chỉ tăng trưởng 4%, đạt 122,24 nghìn tỷ đồng (dự báo trước đây là tăng trưởng 17%, đạt 137,52 nghìn tỷ đồng). Mặc dù tại ĐHCĐTN, Ngân hàng đặt kế hoạch tăng trưởng cho vay khách hàng 12% và tăng trưởng huy động khách hàng là 26%, thì từ đầu năm tốc độ tăng trưởng đạt được là rất khiêm tốn.

    (3)  Do đó, hệ số LDR thuần dự báo là khoảng 87%.

    (4)  Chúng tôi dự báo tỷ lệ NIM là 2,24% (năm 2017 là 2,10%). Nhờ cơ cấu cho vay tốt hơn với tỷ trọng cho vay cá nhân tăng.

    (5)  Thu nhập lãi thuần dự báo tăng trưởng 18,85% đạt 3.170 tỷ đồng.

    (6)  Chúng tôi giả định rằng tổng thu nhập ngoài lãi tăng trưởng 44,35% đạt 1.675 tỷ đồng với tỷ trọng đóng góp lớn từ thu nhập từ thoái vốn tại STB và thu hồi nợ xấu.

    (7)  HSC dự báo chi phí hoạt động sẽ tăng 6% lên 2.338 tỷ đồng.

    (8)  Chúng tôi cũng dự báo tổng chi phí dự phòng sẽ tăng 90,35% lên 1.150 tỷ đồng gồm 306 tỷ đồng là dự phòng nợ xấu thông thường (giảm 34,47%) và 599 tỷ đồng là dự phòng trái phiếu VAMC (với mệnh giá 5.741 tỷ đồng). Và 245 tỷ đồng chi phí phát sinh do vụ chiếm đoạt tiền gửi tiết kiệm. Chúng tôi không bao gồm khả năng thu hồi nợ liên quan đến trái phiếu VAMC ở đây do đây là yếu tố khó để dự báo.

    (9)  Hệ số CAR tính theo Basel 1 sẽ là 15,5% (tại thời điểm cuối năm 2017 là 15,97%).

    Do đó, LNTT dự báo đạt 1.356 tỷ đồng (tăng trưởng 33,33%). Với những giả định trên, BVPS là 12.299đ, tương đương EPS năm 2018 là 835đ, ROE là 7,4% và ROAA là 0,7%. Ở thị giá hiện tại là 13.500đ, P/B dự phóng là 1,1 lần và P/E là 16,2 lần.

    Cho năm 2019, HSC dự báo LNTT tăng trưởng 20,64% đạt 1.636 tỷ đồng LNTT. Dự báo của chúng tôi căn cứ vào các giả định sau đây:

    (1)  HSC dự báo cho vay khách hàng tăng trưởng 14% và đạt 121,52 nghìn tỷ đồng và huy động khách hàng tăng trưởng 14%, đạt 139,35 nghìn tỷ đồng.

    (2)  Do đó, hệ số LDR thuần dự báo là khoảng 87%.

    (3)  Chúng tôi dự báo tỷ lệ NIM tăng 0,32% lên 2,56% nhờ tăng trưởng cho vay khách hàng cá nhân tăng trưởng mạnh hơn.

    (4)  Thu nhập lãi thuần dự báo tăng trưởng 24,85% đạt 3.958 tỷ đồng.

    (5)  Chúng tôi giả định rằng tổng thu nhập ngoài lãi tăng trưởng 20,36% đạt 1.333 tỷ đồng chủ yếu do không còn thu nhập không thường xuyên từ thoái vốn như trong năm 2018.

    (6)  Tổng thu nhập hoạt động đạt 5.292 tỷ đồng.

    (7)  HSC dự báo chi phí hoạt động sẽ tăng 7% lên 2.502 tỷ đồng.

    (8)  Chúng tôi cũng dự báo tổng chi phí dự phòng sẽ gần như giữ nguyên ở 1.153 tỷ đồng (tăng 0,26%). Với 5.741 tỷ đồng trái phiếu VAMC theo mệnh giá, EIB sẽ phải trích lập ít nhất 574 tỷ đồng chi phí dự phòng nếu Ngân hàng trích lập trong 10 năm.

    (9)  Theo đó, LNTT đạt 1.636 tỷ đồng (tăng trưởng 20,64%)

    (10) Hệ số CAR tính theo Basel 1 vẫn ở mức rất cao là 14,4%.

    Theo đó, BVPS là 13.354đ; EPS là 1.007đ cho năm 2018, ROAE là 8,2% và ROAA là 0,8%. Tại thị giá hiện tại là 13.500đ, thì P/B dự phóng là 1 lần và P/E dự phóng là 13,4 lần.

    Quan điểm đầu tư – Giảm đánh giá từ Khả quan xuống Nắm giữ với giá trị hợp lý mới theo ước tính của chúng tôi là 14.700đ, tương đương P/B dự phóng năm 2018 là 1,2 lần. Ước tính giá trị hợp lý trước đây là 18.000đ, tương đương P/B dự phóng là 1,5 lần. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ cần thêm thời gian để phục hồi do những vấn đề về tài sản tồn đọng và nên hiện giá cổ phiếu thiếu đi những động lực hỗ trợ trung và dài hạn. Chúng tôi chưa thấy một chiến lược rõ ràng cho vài năm tới. Việc tăng trưởng cho vay gặp khó khăn trong gần 3 năm sẽ khiến cho thu nhập lãi thuần tăng trưởng khiêm tốn. Trong khi đó EIB cũng không có nhiều cơ hội để hạch toán những khoản thu nhập ngoài lãi lớn. Do vậy, mặc dù trích lập dự phòng trái phiếu VAMC trong 10 năm, thì lợi nhuận của Ngân hàng cũng sẽ khó có thể cải thiện mạnh mẽ.

    ————————————————-

    EIB chart. Nguồn: Admin

    ** EIB thanh khoản gần đây rất thấp, không đảm bảo tính khách quan trong cung cầu cổ phiếu nên phân tích đồ thị kỹ thuật phản ánh độ chính xác không cao.

  • VDSC cập nhật MSH niêm yết ngày đầu tiên trên HOSE ngày 28/11

    MSH: CTCP May Sông Hồng

    Ngày 28/11, 46,7 triệu cổ phiếu của CTCP May Sông Hồng (HSX: MSH) sẽ chính thức giao dịch trên sàn HOSE với mức giá tham chiếu 45.000 đồng/cp. MSH được đánh giá là một trong những doanh nghiệp dệt may đầu ngành với tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và cổ tức tiền mặt duy trì đều đặn qua các năm. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cung cấp một vài thông tin nổi bật giúp quý nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

    MSH được thành lập vào năm 1988, trải qua 8 lần tăng vốn để có nguồn tài trợ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và bổ sung vốn lưu động, vốn điều lệ của công ty từ 6 tỷ đồng đã tăng lên 476,28 tỷ đồng. Trong đó, 4 cổ đông lớn gồm ông Bùi Đức Thịnh (chủ tịch HĐQT), ông Bùi Việt Quang (TGĐ), bà Nguyễn Thị Đào và CTCP Chứng khoán FPT sở hữu 53,91% tổng vốn cổ phần. MSH hiện đang sở hữu 6 khu vực sản xuất hàng may mặc và chăn ga gối đệm trên địa bàn TP. Nam Định, gồm 18 nhà máy may với 155 chuyền may, cung ứng gần 5 triệu sản phẩm may mặc mỗi tháng. May mặc xuất khẩu là mảng kinh doanh chính của công ty, ngoài ra MSH còn sản xuất chăn ga gối đệm chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa.

    May mặc xuất khẩu là mảng kinh doanh cốt lõi: MSH đang giảm dần tỷ trọng hàng hóa sản xuất theo phương thức CMT, đẩy mạnh đơn hàng FOB (cấp 1 & cấp 2) để cải thiện biên lợi nhuận gộp. Hiện tại, doanh thu hàng may mặc đóng góp từ phương thức FOB ước tính vào khoảng 70%, công ty sẽ tiếp tục nâng tỷ trọng đơn hàng FOB lên 80% trong năm 2019.

    Đối với hàng FOB, công ty chủ yếu xuất sang hai thị trường chính là Mỹ (70%) và EU (30%) cho các nhãn hàng thời trang lớn như Columbia Sportswear, Haddad Brands, GIII, Gap, New York & Company… Đây cũng là hai thị trường xuất khẩu chính ghi nhận tốc độ tăng trưởng sản lượng hàng dệt may Việt Nam cao nhất trong 6T 2018, lần lượt đạt 9,4% và 6,1%. Nhờ lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do FTA cùng sự dịch chuyển đơn hàng do tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, chúng tôi cho rằng dư địa tăng trưởng hàng dệt may tại hai thị trường này vẫn còn khá lớn.

    Để đáp ứng được yêu cầu từ EVFTA, công đoạn dệt vải và công đoạn may thành phẩm phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc EU hoặc các nước đối tác chung của Việt Nam và EU (Hàn Quốc). Trong khi đó, 90% nguyên liệu vải của MSH đang phải nhập khẩu từ Trung Quốc, nếu công ty không tìm nguồn cung nguyên liệu thay thế từ các nước thành viên thì rõ ràng MSH không thể đáp ứng được yêu cầu xuất xứ “từ vải trở đi” của EVFTA, hay yêu cầu xuất xứ khắt khe “từ sợi trở đi” theo CPTPP.

    Ngoài ra, thị trường xuất khẩu chính của đơn hàng CMT đến từ Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc. Công ty hiện đang làm việc với những đối tác lớn trên thị trường như Walmart, Target Store và Costco.

    Chăn ga gối đệm mang lại biên lợi nhuận gộp cao nhất: Chăn ga gối đệm với thương hiệu ‘’Sông Hồng’’ đã tạo nên tên tuổi vững chắc tại thị trường Việt Nam. Dù chỉ đóng góp 15% doanh thu nhưng đây là lĩnh vực kinh doanh mang lại biên lợi nhuận gộp cao nhất (37% – 40%), công ty cho biết sẽ không chú trọng phát triển mảng chăn ga gối đệm do đây là mặt hàng theo mùa vụ, hoạt dộng kinh doanh biến động dưới ảnh hưởng của thời tiết. Đồng thời, với định vị thương hiệu cung cấp sản phẩm cho các khách hàng phổ thông, MSH sẽ chịu áp lực cạnh tranh trực tiếp với hàng nhái, hàng giả từ Trung Quốc nhiều hơn so với hai thương hiệu tên tuổi còn lại là Everpia và Havico với định vị phân khúc trung cao cấp (cung cấp sản phẩm cho các khách sạn, resorts…). Nếu công ty không có những chiến lược hiệu quả trong việc xây dựng thương hiệu, marketing các năm tới thì nhiều khả năng tỷ suất lợi nhuận gộp sẽ bị sụt giảm dưới áp lực cạnh tranh gay gắt.

    Chính sách cổ tức tiền mặt duy trì đều đặn qua các năm: Ban lãnh đạo cho biết sẽ duy trì chính sách cổ tức tiền mặt đều đặn với tỷ lệ 3.500 đồng/cp – 4.500 đồng/cp trong các năm tới. Với cổ tức chi trả năm 2018 ước tính ở mức 3.500 đồng/cp, kết hợp với giá khởi điểm 45.000 đồng/cp thì tỷ suất cổ tức của MSH vào khoảng 7,8%.

    Nhìn chung, MSH là cổ phiếu dệt may đầy triển vọng với hoạt động kinh doanh ổn định và cổ tức tiền mặt được duy trì đều đặn qua các năm. Chúng tôi cho rằng những tác động tích cực từ các hiệp định thương mại FTA và sự dịch chuyển đơn hàng ngày càng tăng từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ là bàn đạp giúp gia tăng nhu cầu đối với đơn hàng dệt may của công ty. Tuy nhiên, công ty cần phải chủ động hơn nữa trong việc tìm nguồn cung nguyên liệu vải thay thế từ các doanh nghiệp Việt Nam hoặc từ các nước thành viên để đáp ứng yêu cầu xuất xứ nguồn gốc “khắt khe” từ các hiệp định thương mại.

    ————————————————-

Nguồn: VCSC, HSC, BSC, chart bởi Admin

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.