HDB: Ngân hàng mẹ và HD Saison vẫn trên đà hoàn thành chiến lược trung và dài hạn cho mảng bản lẻ – [Khả quan – Mục tiêu 38.500 đ/cp]

Tiếp tục đánh giá Khả quan với ước tính giá trị hợp lý của cổ phiếu là 38.500đ, tương đương P/B hiện tại là 2,4 lần. Cả Ngân hàng mẹ và HD Saison vẫn trên đà hoàn thành chiến lược trung và dài hạn cho mảng bản lẻ với chất lượng tài sản được kiểm soát tốt.

Tóm tắt – Là ngân hàng tốt với room khối ngoại trên HSX còn trống mặc dù định giá cổ phiếu không còn rẻ. Tuy nhiên triển vọng trung hạn vẫn rất hứa hẹn.

>> Ngành Ngân hàng: Kết quả kinh doanh Quý 4 và cả năm 2018 của VCB BIDV VPB MBB HDB VIB STB LPB (phần 1)

>> HDB: xin ý kiến phát hành 300 triệu USD TPCĐ – [Khả quan – Mục tiêu 12 tháng tới 47.000 đ/cp]

>> ĐHCĐ HDBank: Đồng ý nhận sáp nhập PGBank vào HDBank tỷ lệ 1:0.621, dự kiến LN sau sáp nhập 4.700 tỷ

Nhận định KQKD năm 2018

Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM (HDB: Khả quan) công bố LNTT hợp nhất đạt 4.004 tỷ đồng (tăng trưởng 65,7%) và kết quả này nhìn chung sát với kế hoạch được ĐHCĐTN thông qua cũng như dự báo của HSC. Triển vọng năm 2019 vẫn khả quan với dự báo LNTT hợp nhất tăng trưởng 27,3% (không bao gồm các ảnh hưởng của thương vụ M&A).

Tóm tắt – Là ngân hàng tốt với room khối ngoại trên HSX còn trống mặc dù định giá cổ phiếu không còn rẻ. Tuy nhiên triển vọng trung hạn vẫn rất hứa hẹn.  

  1. LNTT hợp nhất đạt 4.004 tỷ đồng (tăng trưởng 65,7%) nhờ cả Ngân hàng mẹ và HD Saison đều cho lợi nhuận tốt, lần lượt là 3.250 tỷ đồng, tăng trưởng 59,29% và 898 tỷ đồng, tăng trưởng 72,73%. HD Saison đóng góp 22% tổng LNTT.
  1. Cho vay khách hàng tăng trưởng 18,3% và đây là hạn mức do NHNN cấp. Trong khi đó, HD Saison cũng tăng trưởng cho vay 12,7% so với hạn mức tăng trưởng tín dụng được NHNN phê duyệt cho năm 2018 là 35%.
  1. Tuy nhiên, tỷ lệ NIM của HDB tăng đáng kể, bên cạnh đó chi phí dự phòng cũng giảm và chi phí hoạt động được kiểm soát rất tốt, nhờ vậy hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận. Ở HD Saison, thu nhập hoa hồng bảo hiểm và thu nhập từ thu hồi nợ xấu tăng mạnh, thúc đẩy thu nhập ngoài lãi. Nhờ vậy, LNTT tăng trưởng 72,7% mặc dù cho vay khách hàng chỉ tăng khiêm tốn.
  1. Mức trích lập dự phòng vẫn nhỏ hơn so với bình quân của các ngân hàng. Tuy nhiên, phần dự phòng cụ thể điều chỉnh thêm để đạt mức bình quân ngành không nhiều và chỉ ảnh hưởng nhẹ đến BVPS.
  1. Tuy nhiên, hệ số CAR cũng giảm mạnh xuống 11,2% ở Ngân hàng mẹ (vốn Cấp 1: 9,9%, vốn Cấp 2: 1,3%) do khối lượng trái phiếu vốn Cấp 2 giảm theo Thông tư 19. Theo Basel 2 có vẻ CAR vẫn trên mức 10%. Như vậy Ngân hàng có thể cần huy động vốn mới từ thị trường sớm hơn so với dự báo trước đây.
  1. Thương vụ M&A với PG Bank vẫn đang đợi phê duyệt cuối cùng từ NHNN. Chúng tôi vẫn giữ quan điểm tích cực đối với thương vụ này và cho rằng quan hệ hợp tác độc quyền với Petrolimex Group trong 10 năm có thể giúp HDB hoàn thiện chiến lược bán lẻ đa ngành nghề.
  1. HDB cũng có kế hoạch phát hành 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi, tuy nhiên không có nhiều thông tin chi tiết được công bố. Đợt phát hành này là nhằm cải thiện hệ số CAR theo Basel 2 trong vài năm tới. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng tiềm ẩn rủi ro pha loãng cổ phiếu đối với cổ đông hiện hữu.

Tăng trưởng cho vay – Ngân hàng mẹ đã sử dụng hết hạn mức tăng trưởng tín dụng trong khi đó HD Saison chỉ sử dụng 1/3.  

Cho vay khách hàng hợp nhất tăng trưởng 17,8% đạt 123,13 nghìn tỷ đồng với cơ cấu cho vay như sau:  

  • Tăng trưởng cho vay ở Ngân hàng mẹ HDB là 18,3% đạt 112,47 nghìn tỷ đồng. Cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn tăng trưởng với mức độ tương đương, lần lượt là 19,7% và 16,8%. HDB vẫn duy trì hơn 50% tổng dư nợ cho các khoản cho vay ngắn hạn. Do đó, Ngân hàng không cần lo lắng quá nhiều về quy định tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung hạn được thắt chặt từ tháng 1/2019 (giảm xuống 40% từ 45% trong năm 2018).

Không có nhiều thông tin chi tiết về cơ cấu cho vay theo khách hàng và ngành nghề. Tuy nhiên, theo trao đổi của chúng tôi với lãnh đạo Ngân hàng, cho vay khách hàng cá nhân vẫn đóng góp lớn nhất với mức tăng trưởng 37-38% trong năm 2018.  

NHNN thắt chặt tăng trưởng tín dụng là điểm lo ngại đối với HDB – Trong năm 2018, Ngân hàng đã mở thêm 40 chi nhánh và phòng giao dịch mới, nâng tổng chi nhánh và phòng giao dịch lên 284 (tăng 18,8%) và bắt đầu cho vay một cách quyết liệt từ Q1 (tăng 11,5% so với đầu năm) và do đó sử dụng toàn bộ hạn mức tăng trưởng tín dụng ban đầu trong Q2 (tăng 16,2% so với đầu năm). Sau đó, Ngân hàng tạm ngừng tăng trưởng cho vay trong toàn bộ Q3 và vào cuối Q4/2018 được phép tiếp tục cho vay. Do đó, với định hướng thắt chặt hơn nữa tăng trưởng tín dụng của NHNN trong năm 2019 và một vài năm tới, HDB có thể sẽ gặp khó khăn trong việc tối ưu hóa hiệu quả của hệ thống chi nhánh và phòng giao dịch mới thành lập. Tình trạng này có thể được giải quyết nếu Ngân hàng được cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng lớn hơn sau khi hoàn tất sáp nhập với PG Bank. Tuy nhiên, chúng tôi nghi ngờ khả năng hạn mức mới có thể cao hơn mức 30%. Mức 20-25% có lẽ là thực tế hơn.  

Nguồn huy động – tập trung hơn vào huy động trung và dài hạn 

Nguồn huy động nghiêng hơn về trung và dài hạn 

  • Tiền gửi có kỳ hạn tăng 10,85% đạt 116,67 nghìn tỷ đồng (đóng góp 91,02% tổng tiền gửi khách hàng).
  • Tiền gửi không kỳ hạn giảm 25,34% xuống 11,47 nghìn tỷ đồng (đóng góp 8,96% tổng tiền gửi khách hàng).

Lưu ý ở đây là toàn bộ tiền gửi khách hàng là từ Ngân hàng mẹ HDB, do nguồn huy động chủ yếu của HD Saison là vay liên ngân hàng và phát hành giấy tờ có giá. Theo kỳ hạn, chúng tôi nhận thấy HDB đã phát hành gần 5.000 tỷ đồng giá trị trái phiếu trung và dài hạn trong năm 2018 (tăng 129,0% dẫn đến số dư GTCG dài hạn tăng từ 930 tỷ đồng lên 6.000 tỷ đồng). Nhờ vậy, Ngân hàng có thể chủ động khi tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn mới được áp dụng từ tháng 1/2019 (từ 45% trong năm 2018 xuống 40%).  

Hệ số LDR thuần ở Ngân hàng mẹ là 87,8% (năm 2017 là 78,8%) – Tuy nhiên, tỷ lệ LDR điều chỉnh (cho vay khách hàng/(tiền gửi khách hàng + giấy tờ có giá) chỉ là 81,87% – vẫn là mức có thể kiểm soát được. Chúng tôi cũng lưu ý ở đây rằng HDB có khoảng 3.000 tỷ đồng các khoản vay ủy thác cho một số mảng ưu tiên (ghi nhận là cho vay khách hàng) với nguồn huy động trực tiếp từ vốn ODA và vốn vay WB (được phân loại là vay liên ngân hàng). HDB chỉ được nhận khoảng 1% phí quản lý giải ngân ở đây. Do đó, nếu trừ các khoản vay này trong tổng dư nợ, hệ số LDR sẽ là khoảng 79,7%. Đây vẫn là mức thấp và không gây nhiều áp lực tăng chi phí huy động lên Ngân hàng.  

Tỷ lệ NIM – Tăng nhẹ 0,1% lên 4,16%, chủ yếu nhờ tỷ lệ NIM ở Ngân hàng mẹ tăng 

Tỷ lệ NIM hợp nhất tăng 0,1% lên 4,16%. Tuy nhiên, chủ yếu là nhờ tỷ lệ NIM của Ngân hàng mẹ tăng, tăng 0,23% từ 2,46% lên 2,49%, trong khi đó chúng tôi ước tính tỷ lệ NIM của HD Saison giảm mạnh 4% từ 30% xuống 26%.  

Ở Ngân hàng mẹ, tỷ lệ NIM tăng chủ yếu nhờ chi phí huy động bình quân tiếp tục giảm (giảm 0,14%) hơn là nhờ lợi suất gộp tăng (lợi nhuận gộp thực tế giảm 0,06%).  

Về các tài sản sinh lãi, lợi suất gộp cho vay khách hàng giảm 0,08% xuống 9,69% (với mức đáy là 8,91% trong Q1/2018). Lợi suất gộp cho vay liên ngân hàng chỉ giảm 0,02% xuống 1,01% trong khi đó lợi suất gộp đầu tư trái phiếu cũng giảm 0,56% xuống 5,19%. HDB đã bán phần lớn TPCP có lợi suất cao trong 2 năm qua và ghi nhận 956 tỷ đồng thu nhập mua bán trái phiếu kinh doanh và đầu tư trong 2 năm. Do đó, lợi suất trái phiếu giảm nhanh chóng và lợi nhuận từ hoạt động này sẽ không đáng kể trong hai năm tới.  

Về nguồn huy động, chúng tôi lưu ý rằng chi phí huy động tiền gửi khách hàng giảm 0,17% xuống 5,15%, trong khi đó chi phí huy động giấy tờ có giá cũng giảm 0,65% xuống 7,42%. Tuy nhiên, chi phí vay liên ngân hàng tăng 0,82% lên 2,65%.  

Lưu ý một lần nữa rằng NHNN thắt chặt hơn nữa hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ ảnh hưởng đến HDB – Cụ thể, tỷ trọng cho vay khách hàng trong tổng tài sản sinh lãi của HDB đã giảm trở lại về dưới 60%, sau khi tăng lên đỉnh điểm là 65,2% vào cuối tháng 6/2018. HDB trước đó đã duy trì tỷ trọng cho vay khách hàng trong tổng tài sản sinh lãi ở mức thấp (dưới 60%) so với các ngân hàng khác (bình quân là trên 70%). Do đó dẫn đến lợi suất gộp bình quân thấp và tỷ lệ NIM mỏng bởi cơ cấu tài sản sinh lãi không đạt hiệu quả tối ưu. Tuy nhiên, HDB đã nỗ lực giải quyết vấn đề này từ năm 2018 bằng cách đẩy tỷ trọng cho vay khách hàng lên tới 65,2%. Tuy nhiên, với hạn mức tăng trưởng tín dụng khá thấp, Ngân hàng buộc phải giải ngân vào một số TPCP và cho vay liên ngân hàng trở lại.  

Kết quả lợi nhuận  

Thu nhập lãi thuần hợp nhất tăng trưởng 19,9% đạt 7.645 tỷ đồng nhờ tỷ lệ NIM tăng 0,1% và tổng tài sản sinh lãi tăng 13,5%.  

  • Thu nhập lãi thuần của HDB tăng trưởng mạnh 30,6% đạt 4.703 tỷ đồng, trong khi đó
  • Thu nhập lãi thuần của HD Saison ước tính chỉ tăng khiêm tốn 7,7% đạt 2.938 tỷ đồng.

Tổng thu nhập ngoài lãi tăng trưởng mạnh 50,7% đạt 1.794 tỷ đồng.  

  • Thu nhập ngoài lãi của HDB tăng trưởng 21,7% đạt 1.418 tỷ đồng, trong khi đó
  • Thu nhập ngoài lãi của HD Saison tăng gấp ba lần theo ước tính của chúng tôi.

Ở Ngân hàng mẹ, lãi thuần hoạt động dịch vụ tăng tốt 26,3% đạt 169,80 tỷ đồng. Lãi thuần mua bán chứng khoán đầu tư và kinh doanh vẫn đóng góp 1/3 tổng thu nhập ngoài lãi, là 465,85 tỷ đồng (giảm 5,1%). Trong khi đó, lãi thuần HĐKD ngoại hối tăng 88,5% đạt 326,02 tỷ đồng, và thu nhập khác tăng 17,9% đạt 204,72 tỷ đồng với đóng góp lớn nhất là từ thu hồi nợ xấu (91,44 tỷ đồng). Do đó, tổng thu nhập hoạt động hợp nhất tăng trưởng 25,4% đạt 9.440 tỷ đồng.  

  • Tổng thu nhập hoạt động của Ngân hàng mẹ HDB tăng trưởng 28,4% đạt 6.122 tỷ đồng, trong khi đó
  • Tổng thu nhập hoạt động của HD Saison tăng trưởng 19,6% đạt 3.462 tỷ đồng.

Ở Ngân hàng mẹ, chi phí hoạt động được kiểm soát tốt, là 2.614 tỷ đồng (tăng 13,4%).  

  • Chi phí liên quan đến nhân viên tăng 27,1% so với năm 2017 lên 1.317 tỷ đồng với số lượng nhân viên bình quân tăng 14,5%. Do đó, mức lương bình quân/tháng/nhân viên tăng nhẹ từ 17,1 triệu đồng lên 19 triệu đồng.
  • Trong khi đó, chi phí liên quan đến tài sản chỉ tăng 17,0% lên 471,57 tỷ đồng, do Ngân hàng mở rộng hệ thống chi nhánh 18,8% trong năm 2018. HDB đã mở thêm các chi nhánh mới tại các tỉnh lân cận và vùng nông thôn với chi phí cố định thấp hơn.
  • Chi phí quản lý cũng tăng vừa phải ở mức 13,4% lên 811,02 tỷ đồng.
  • Tuy nhiên, chúng tôi lưu ý ở đây rằng Ngân hàng đã hoàn nhập 101,76 tỷ đồng trong năm 2018.

Do đó, hệ số CIR là 42,7% so với mức 48,4% trong năm ngoái.  

Chất lượng tài sản – được kiểm soát tốt 

HDB đã đạt được những thành tựu đáng kể trong kiểm soát chất lượng tài sản – với tỷ lệ nợ xấu rất thấp (1,08% vào cuối năm 2018 so với 1,10% trong năm 2017) sau khi xóa 33,7 tỷ đồng nợ xấu. Như vậy, chỉ có 173,2 tỷ đồng nợ xấu hình thành mới trong năm 2018. Tuy nhiên, nợ nhóm 2 cũng giảm 272,7 tỷ đồng xuống 968 tỷ đồng (tương đương 0,86% dư nợ so với tỷ trọng 1,31% trong năm 2017).  

Hệ số LLR được giữ nguyên ở 82,17% (tại thời điểm cuối năm 2017 là 82,49%).  

HDB còn 1.407 tỷ đồng trái phiếu VAMC theo mệnh giá (giảm từ 1.838 tỷ đồng vào một năm trước) – với chi phí trích lập dự phòng lũy kế là 915 tỷ đồng. Theo đó, giá trị thuần của trái phiếu VAMC chỉ còn 491 tỷ đồng; tương đương 0,44% tổng dư nợ.  

Trích lập dự phòng – vẫn mỏng hơn so với bình quân ngành 

Ngân hàng mẹ HDB trích tổng cộng 257 tỷ đồng chi phí dự phòng (giảm 38,8%) gồm 139,8 tỷ đồng chi phí dự phòng chung (giảm 10,1%); 36,7 tỷ đồng chi phí dự phòng cụ thể (giảm 13,8%) và chỉ 80,93 tỷ đồng chi phí dự phòng cho trái phiếu VAMC. Tuy nhiên tỷ lệ chi phí dự phòng cụ thể thực tế trên BCĐKT/chi phí dự phòng cụ thể tối đa theo lý thuyết (không tính giá trị của tài sản đảm bảo) là rất thấp, ở vào 18,3%; thấp hơn cả VPB (là 40%). Điều này có thể bao hàm 2 ý: (1) tổng giá trị tài sản đảm bảo do HDB nắm giữ có thể ở mức cao hơn so với các ngân hàng khác, và (2) nếu HDB cần phải trích lập dự phòng toàn bộ cho các khoản nợ xấu và xóa các khoản nợ này trong trường hợp tỷ lệ nợ xấu tăng quá nhanh, thì Ngân hàng sẽ phải trích lập đáng kể chi phí dự phòng. Chẳng hạn nếu sử dụng tỷ lệ của bình quân ngành là 50% làm cơ sở, thì HDB có thể cần phải trích lập thêm 300 tỷ đồng chi phí dự phòng cụ thể.  

Hệ số CAR – giảm do vốn cấp 2 giảm. Ngân hàng đã có một số kế hoạch tăng vốn và điều này có thể dẫn đến rủi ro pha loãng 

Hệ số CAR Ngân hàng mẹ đã giảm xuống 11,2% từ 13,4% tại thời điểm cuối 2017. Trong đó, hệ số CAR từ vốn cấp 1 vẫn là 9,9% nhưng hệ số CAR từ vốn cấp 2 chỉ là 1,3%. Lý do chính là trái phiếu vốn cấp 2 đã giảm từ tháng 2/2018 (theo Thông tư 19 của NHNN). Hệ số CAR theo Basel 2 ước tính là khoảng 10% (theo ban lãnh đạo) trong khi từ tháng 1/2020 mức tối thiểu theo quy định của NHNN là 8%. Theo đó hệ số CAR của HDB hiện chỉ ở mức hợp lý nếu tính theo Basel 2 đến năm 2020 và Ngân hàng sẽ cần sớm tăng vốn. Việc sáp nhập với PGB sau khi hoàn tất cũng sẽ không tạo ra áp lực làm suy giảm tỷ lệ CAR của HDBank bởi vì tỷ lệ CAR theo Basel 1 của PGB vẫn đang ở mức khá cao gần 15% vào cuối năm 2018. Tuy nhiên trong kế hoạch sáp nhập được thông qua tại ĐHCĐTN, thì HDB dự kiến mua lại 38% số lượng cổ phiếu PGB làm cổ phiếu quỹ ngay sau khi phân phối cho cổ đông hiện hữu của HDB. Sau đó Ngân hàng sẽ bán đấu giá cho NĐT với giá cao khi điều kiện thị trường thuận lợi. Theo đó hệ số CAR ngay sau sáp nhập có lẽ sẽ không cải thiện nhanh.  

HDB dự kiến phát hành khoảng 300 triệu trái phiếu chuyển đổi (tương đương 6.900 tỷ đồng và 70% số lượng cổ phiếu lưu hành) cho NĐTNN với mục đích là nâng cao năng lực vốn. Hiện chúng tôi chưa có đủ thông tin cụ thể về lãi suất coupon, giá chuyển đổi, thời gian chuyển đổi… Do vậy, khó có thể đánh giá chính xác ảnh hưởng của kế hoạch này đối với việc định giá ngân hàng. Tuy nhiên do quy mô phát hành dự kiến lớn, nên chúng tôi cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của HDB (từ khía cạnh chi phí khi phát hành trái phiếu chuyển đổi) và tạo ra rủi ro pha loãng không nhỏ. 

KQKD của HD Saison – KQKD tăng mạnh chủ yếu nhờ tăng trưởng thu nhập ngoài lãi 

Hiện HD Saison chưa công bố BCTC đầy đủ do cổ phiếu vẫn còn giao dịch trên thị trường OTC. Theo đó, toàn bộ phân tích đối với HD Saison dưới đây dựa trên số liệu ước tính của chúng tôi từ BCTC hợp nhất và BCTC Ngân hàng mẹ HDB sau khi tự điều chỉnh các giao dịch nội bộ giữa HDB và HD Saison (nếu có và theo chúng tôi có giá trị không lớn).  

Mặc dù dư nợ cho vay trong năm 2018 chỉ tăng 12,7% đạt 10.652 tỷ đồng nhưng LNTT của HD Saison vẫn tăng mạnh tới 72,7%. Điều này chủ yếu nhờ thu nhập ngoài lãi tăng trưởng với những yếu tố chủ chốt được đề cập dưới đây. 

  • Dư nợ cho vay của HD Saison tăng trưởng 12,7% đạt 10.652 tỷ đồng, chỉ đóng góp 8,65% tổng dư nợ cho vay hợp nhất. Cụ thể, cho vay kỳ hạn ngắn đóng góp chính vào tăng trưởng, tăng 20,3% đạt 5.174 tỷ đồng và đóng góp 48,6% tổng dư nợ. Cho vay trung hạn chỉ tăng 6,4% đạt 5.478 tỷ đồng và đóng góp 51,4% tổng dư nợ. Có vẻ HD Saison tiếp tục theo đuổi chiến lược cho vay xe 2 bánh và các thiết bị điện gia dụng thay vì cho vay tiền mặt.
  • Chúng tôi ước tính thu nhập lãi thuần của HD Saison tăng khiêm tốn ở mức 7,7% đạt 2.938 tỷ đồng do tỷ lệ NIM giảm từ 30% xuống còn khoảng 26%. Chúng tôi cho rằng điều này là do mức độ cạnh tranh rất cao đã khiến lãi suất cho vay giảm, chứ không phải do chi phí huy động tăng.
  • Chúng tôi ước tính thu nhập ngoài lãi tăng 214,8% đạt 524 tỷ đồng. Trong đó 278 tỷ đồng là thu nhập từ thu hồi nợ xấu (tăng 162,5%) và 245 tỷ đồng là lãi thuần HĐ dịch vụ (tăng 306,7%). Lãi thuần HĐ dịch vụ tăng trưởng mạnh hơn trong năm 2018 chủ yếu nhờ Công ty cung cấp bảo hiểm tín dụng cho các khách hàng vay mới và hoa hồng từ các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Chúng tôi thấy rằng HD Saison có tỷ lệ thu hồi nợ xấu (= thu nhập từ thu hồi nợ xấu năm nay/tổng nợ xấu đã xóa trong năm trước) cao nhất trong số 3 công ty tài chính tiêu dùng hàng đầu.
  • Theo đó chúng tôi ước tính tổng thu nhập hoạt động đạt 3.462 tỷ đồng (tăng trưởng 19,6%).
  • Tổng chi phí hoạt động gần như giữ nguyên ở 1.827 tỷ đồng (tăng 2,7%); sát với mức tăng của số lượng nhân viên bình quân (tăng 3,96% lên 8.271 người tại thời điểm cuối năm 2018). HD Saison thường không có các chi phí liên quan tới tài sản cố định (chẳng hạn chi phí khấu hao, chi phí thuê văn phòng). Chi phí nhân viên chiếm tỷ lệ lớn nhất trong chi phí hoạt động.
  • Hệ số CIR được kiểm soát tốt ở mức 52,77% (năm ngoái là 61,43%). Tuy nhiên so với FE Credit và Home Credit thì tỷ lệ này vẫn còn cao.
  • Chi phí dự phòng vào khoảng 736 tỷ đồng, trong đó chỉ có 8,87 tỷ đồng là chi phí dự phòng chung (và không có dấu hiệu cho thấy hoạt động giải ngân tập trung vào tháng 12/2018 như ở FE Credit). Chi phí dự phòng cụ thể là 727,94 tỷ đồng (tăng 24,2%). Tỷ lệ chi phí dự phòng cụ thể thực tế/chi phí dự phòng cụ thể tối đa theo lý thuyết của HD Saison là 86,4%.

Dự báo cho năm 2019 – LNTT tăng trưởng 27,3% đạt 5.098 tỷ đồng 

Do chưa chắc chắn về thời điểm sáp nhập PGB cũng như thông tin về kế hoạch phát hành trái phiếu chuyển đổi, nên chúng tôi chỉ dự báo lợi nhuận của HDB. 

Cho năm 2019, HSC dự báo LNTT hợp nhất tăng trưởng 27,3% đạt 5.098 tỷ đồng với giả định chính của chúng tôi cho HDB trước khi sáp nhập như sau: 

  1. Chúng tôi dự báo cho vay khách hàng tăng trưởng 18,2% so với năm 2018 và đạt 145 nghìn tỷ đồng. Trong đó, cho vay khách hàng của HDB tăng trưởng 18% đạt 132 nghìn tỷ đồng và của HDSaison tăng trưởng 20% đạt 12,78 nghìn tỷ đồng.
  1. Chúng tôi dự báo tiền gửi khách hàng tăng trưởng 14,1% đạt 146 nghìn tỷ đồng và hoàn toàn là từ HDBank.
  1. Do đó, hệ số LDR thuần của HDB dự báo tăng lên 90,85% từ 87,77% trong năm 2018.
  1. Chúng tôi dự báo tỷ lệ NIM tăng 0,43% lên 4,47% từ 4,04% chủ yếu nhờ tỷ lệ NIM tại HDBank tăng 0,3%. Trong khi đó, chúng tôi dự báo tỷ lệ NIM tại HDSaison sẽ giữ nguyên ở 27% trong năm 2019.
  1. Do đó, chúng tôi dự báo thu nhập lãi thuần tăng trưởng 20,9% đạt 9.243 tỷ đồng. Trong đó, thu nhập lãi thuần của HDBank tăng trưởng 21,7% đạt 7.525 tỷ đồng và của HDSaison tăng trưởng 19,7% đạt 3.517 tỷ đồng.
  1. Chúng tôi dự báo tổng thu nhập ngoài lãi tăng trưởng 20,3% đạt 2.159 tỷ đồng. Cả HDBank và HDSaison đều đạt tăng trưởng mạnh lãi thuần hoạt động dịch vụ, đặc biệt là HDB khi Ngân hàng bắt đầu đẩy mạnh hoạt động bancassurance. Thu nhập từ kinh doanh trái phiếu sẽ đóng góp không đáng kể cho HDBank như trong năm 2018. Tuy nhiên Ngân hàng sẽ bắt đầu dịch vụ bảo lãnh phát hành và phân phối trái phiếu doanh nghiệp cho những khách hàng lớn (chúng tôi giả định đóng góp từ dòng thu nhập này trong năm 2019 là 322 tỷ đồng so với 465 tỷ đồng trong năm 2018).
  1. Chi phí hoạt động tăng nhẹ 7% so với năm 2018 lên 4.750 tỷ đồng. Trong đó, chi phí hoạt động của HDB chỉ tăng 4,8% lên 2.740 tỷ đồng và của HDSaison tăng 10% lên 2.009 tỷ đồng.
  1. Theo đó, hệ số CIR là 41,7% (năm 2018 là 47%). Tại HDBank, hệ số CIR là 37% (năm 2018 là 42,7%) và tại HDSaison, hệ số CIR là 48,2% (năm 2018 là 52,7%).
  1. Chúng tôi dự báo chi phí dự phòng tăng 56,3% lên 1.553 tỷ đồng. HDBank sẽ trích lập 610 tỷ đồng chi phí dự phòng (tăng 137,3%). Trong khi đó HDSaison trích lập 943 tỷ đồng chi phí dự phòng (tăng 28%).
  1. Theo đó, LNTT hợp nhất dự báo đạt 5.098 tỷ đồng (tăng trưởng 27,3%). HDB sẽ đóng góp 4.063 tỷ đồng (tăng trưởng 25%; bao gồm cả cổ tức từ HDSaison) và HDSaison đóng góp 1.215 tỷ đồng (tăng trưởng 35,3%).

Theo đó, BVPS của HDB sẽ là 19.159đ với EPS là 3.625đ. ROAE là 23% và ROAA là 1,87%. Ở thị giá hiện tại, P/B dự phóng năm 2019 là 1,59 lần và P/E dự phóng là 8,3 lần. 

Định giá & Kết luận 

Chúng tôi duy trì đánh giá Khả quan đối với cổ phiếu HDB. HSC ước tính giá trị hợp lý của cổ phiếu HDB là 38.500đ, tương đương P/B hiện tại là 2,4 lần. Giá trị hợp lý theo ước tính của chúng tôi được tính toán dựa trên phương pháp thu nhập thặng dư. Chúng tôi tin rằng P/B hiện tại của cổ phiếu HDB xứng đáng mức 2,4 lần dựa trên những lý do sau: 

  • HDB duy trì được sự cân bằng hoàn hảo giữa hoạt động ngân hàng truyền thống và tài chính tiêu dùng. Ngoài ra, cho dù tăng trưởng cho vay tại HD Saison ở mức vừa phải, nhưng lợi nhuận lại tăng trưởng rất tốt. HDB có lẽ sẽ hưởng lợi đáng kể từ hệ sinh thái với Vietjet, HDSaison và Petrolimex một khi thương vụ sáp nhập với PGB hoàn tất.
  • HDB chưa trích lập hết trái phiếu VAMC nhưng phần giá trị trái phiếu VAMC chưa được trích lập chỉ bằng 0,44% tổng dư nợ, nghĩa là không lớn (491 tỷ đồng).
  • Cho dù có giả định tăng thêm chi phí dự phòng cho HDB để bằng với mặt bằng ngành và cộng thêm chi phí dự phòng của phần trái phiếu VAMC chưa được trích lập, thì BVPS hiện tại của HDB chỉ giảm từ 15.938đ xuống 15.291đ. Do vậy tại giá trị hợp lý theo ước tính của chúng tôi, P/B sau khi điều chỉnh như trên chỉ là 2,5 lần.
  • ROAE năm 2018 là 20,3%; ROAA là 1,58%. Còn ROAE năm 2019 là 23,2%; ROAA là 1,87%. Và tất cả những điều này là cơ sở cho định giá của chúng tôi.

Nguồn: HSC

Biểu đồ phân tích kỹ thuật bởi Admin


 

 

Gửi phản hồi

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.