Thị trường tiền tệ
Diễn biến thế giới đan xen phức tạp; Lãi suất VND tăng trên cả thị trường 1 và thị trường 2; VND ổn định ngay cả khi đồng CNY tiếp tục mất giá
Thị trường trái phiếu
Lãi suất trái phiếu cùng chiều lãi suất trên thị trường tiền tệ
Thị trường chứng khoán
VNIndex giảm mạnh do tác động từ yếu tố ngoại, phái sinh lại gia tăng thanh khoản; KQKD quý 3, một lý do khiến nhiều cổ phiếu thiếu động lực?
Thị trường tiền tệ
Diễn biến thế giới đan xen phức tạp
Thị trường tài chính toàn cầu ngày càng nhạy cảm với những thông tin liên quan đến căng thẳng thương mại Mỹ -Trung. Trong tháng 10, cuộc chiến này tiếp tục được đẩy lên cao khi Mỹ lập kế hoạch áp thuế bổ sung phần hàng hóa còn lại mà Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc (ước tính khoảng 257 tỷ USD) nếu như 2 bên không đi đến thỏa thuận nào tại cuộc gặp bên lề của kỳ họp thượng đỉnh G20 tại Argentina cuối tháng 11, điều mà gần như chắc chắn sẽ xảy ra khi Trung Quốc vẫn tỏ ra rất cứng rắn.
Kinh tế Trung Quốc bắt đầu “thấm mệt” khi tăng trưởng kinh tế trong quý III của Trung Quốc chỉ đạt 6.5%, chậm nhất kể từ năm 2009. Chỉ số PMI tháng 10 tiếp tục giảm xuống mức 50,2, giảm 0.6 điểm so với tháng 9/2018 và là mức thấp nhất trong 2 năm gần đây. Đồng CNY tiếp tục mất giá, tỷ giá USD/CNY tiến sát về ngưỡng tâm lý 7.0.
Đồng USD không chỉ lên giá so với CNY mà còn lên giá với hầu hết các đồng tiền mạnh khác. Chỉ số USD Index đã tăng vượt mức 97 chủ yếu do sự mất giá của EUR và GPB trước những bất ổn mà các nước Châu Âu đang phải đối mặt. Sự căng thẳng giữa EC và Italia- nền kinh tế lớn thứ 3 trong khối liên quan đến vấn đề nợ công và thâm hụt ngân sách, sự nhập nhằng của tiến trình Brexit và sự gián đoạn của ngành công nghiệp ô tô Đức đã khiến cho nền kinh tế Châu Âu tăng trưởng chậm lại. GDP quý 3 của Châu Âu chỉ tăng 0,2% so với quý trước và tăng 1,7%yoy, mức thấp nhất trong vòng 4 năm gần đây. Đến ngày 2/11/2018, DXY đã giảm về mức dưới 97 vì GBP tăng giá mạnh trước thông tin BOE giữ nguyên lãi suất và phát tín hiệu thắt chặt tiền tệ trong năm 2019.
Xác suất FED nâng lãi suất đã giảm từ mức 78% xuống 73.8%, vẫn là một mức cao cho thấy FED nhiều khả năng sẽ vẫn kiên định với kế hoạch nâng lãi suất. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm sau khi vượt qua mốc 3% vào cuối tháng 9/2018 tiếp tục tăng trong tuần đầu tháng 10 và đạt đỉnh 3.23% vào ngày 5/10/2018 sau đó điều chỉnh giảm nhẹ. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ vốn là công cụ tham chiếu cho lãi suất toàn cầu nên diễn biến này đã gây lo lắng cho giới đầu tư dẫn đến sự sụt giảm mạnh, đồng loạt của các thị trường chứng khoán trong ngày 10 và 11/10/2018.
Lãi suất VND tăng trên cả thị trường 1 và thị trường 2
Lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng sau một thời gian tương đối bình ổn thì tăng mạnh lên trên 4.5% ở tất cả các kỳ hạn. Trong đó, lãi suất qua đêm tăng mạnh nhất, đạt đỉnh 4.533%, +193bps so với cuối tháng 9 và gần sát lãi suất OMO hiện tại là 4.75% trước khi hạ nhiệt về 4.4% vào ngày cuối tháng. Trong bối cảnh đó, sự ổn định của lãi suất USD khiến cho chênh lệch lãi suất giữa USD và VND tiếp tục được dãn rộng lên mức 2.37%, hỗ trợ phần nào cho sự ổn định tỷ giá. Lãi suất thị trường 1 cũng đã điều chỉnh tăng rõ rệt ở các kỳ hạn ngắn 1-3 tháng tại các ngân hàng quốc doanh và kỳ hạn dài 12-13 tháng tại các NHTM cổ phần lớn.
Đáp ứng nhu cầu thanh khoản cao của hệ thống ngân hàng, Ngân hàng nhà nước cho vay OMO lên tới 44.544 tỷ đồng – mức cao nhất trong tháng từ đầu năm 2018 đến nay và tập trung vào tuần cuối của tháng 10. Về tín phiếu, chỉ có 15.170 tỷ đồng được phát hành trong khi có tới 62.691 tỷ đồng đáo hạn. Tính chung cả tháng, NHNN đã bơm ròng 92.065 tỷ đồng trong đó thông qua kênh mua kỳ hạn là 44.544 tỷ đồng.
Lần đầu tiên kể từ tháng 2/2018, khối lượng OMO lưu hành đã vượt khối lượng tín phiếu, đánh dấu sự trở lại của thời kỳ bơm tiền sau một thời gian dài NHNN hút tiền thông qua phát hành tín phiếu khối lượng lớn.
Mùa cao điểm cuối năm cộng hưởng với nhu cầu bảo vệ đồng VND trong bối cảnh CNY tiếp tục mất giá nên xu hướng lãi suất VND trong những tháng tới sẽ khó giảm.
VND ổn định ngay cả khi đồng CNY tiếp tục mất giá
Đồng CNY đã mất giá tới -2.1% chỉ trong vòng 2 tháng gần đây trong khi đồng VND mới giảm -0.24%. Tỷ giá USD/CNY tăng lên mức 6.9758 vào ngày cuối tháng 10, mức cao nhất từ đầu năm 2017 khi PBoC giảm tỷ giá tham chiếu xuống mức thấp nhất trong hơn 1 thập kỷ (6.9574). Nếu USD/CNY giảm về mốc 7 sẽ làm gia tăng các kỳ vọng vào sự mất giá sâu hơn của Nhân dân tệ, gia tăng áp lực thoái vốn, gây bất ổn cho thị trường tài chính Trung Quốc. Nhiều tổ chức tài chính dự báo ngưỡng 7 là ngưỡng rất quan trọng và khó có thể phá vỡ trong năm nay của tỷ giá USD/CNY.
Ngày 02/11/2018, thông tin PBoC phát hành tín phiếu và tín hiệu tích cực về chiến tranh thương mại từ tổng thống Donald Trump, đồng CNY ngay lập tức đã lên giá +1.2%, lùi về mức 6.8907.
Trong tháng 10, tỷ giá trung tâm đã được NHNN nâng thêm 12 điểm (từ 22.714 lên 22.726), tương ứng với tỷ giá trần là 23.408đ. Mặc dù vậy, tỷ giá ngân hàng vẫn được duy trì ổn định ở mức 23.300/23.390, tỷ giá tự do giao động nhẹ quanh ngưỡng 23.450/23.470, thấp hơi chút ít so với cuối tháng 9. Chênh lệch lãi suất USD – VND nới rộng và NHNN có những động thái kịp thời hỗ trợ tỷ giá là những yếu tố chính giúp ổn định đồng VND trong bối cảnh thị trường tiền tệ thế giới có nhiều biến động.
Nguồn thu ngoại tệ vẫn khả quan khi cán cân thương mại nửa đầu tháng 10 thặng dư 40 triệu USD sau khi đạt thặng dư lớn 3.6 tỷ USD chỉ trong 2 tháng 8 và 9. Lũy kế từ đầu năm đến nửa đầu tháng 10, cán cân thương mại đang thặng dư 6.33 tỷ USD. Vốn FDI giải ngân trong tháng 10 đạt 1.85 tỷ USD, tổng vốn FDI đã giải ngân trong 10 tháng đầu năm 2018 là 15.1 tỷ USD, tăng 6.34% yoy. Theo báo cáo của Thủ tướng Chính Phủ tại kỳ họp Quốc hội đang diễn ra, dữ trữ ngoại hối của Việt Nam hiện đang ở khoảng 60 tỷ USD (tương đương 13 tuần nhập khẩu).
Thị trường trái phiếu
Lãi suất trái phiếu cùng chiều lãi suất trên thị trường tiền tệ
Trong tháng 10, xu hướng lãi suất tăng tiếp tục thể hiện trên cả thị trường trái phiếu sơ cấp và thứ cấp.
Lãi suất trái phiếu thứ cấp sau một nhịp điều chỉnh vào giữa tháng 9 đã liên tục tăng. Xu hướng tăng thể hiện rõ nét từ tháng 7 khi các kỳ hạn ngắn 1Y – 5Y đồng loạt tăng mạnh. Tuy nhiên, các kỳ hạn dài thực tế đã bắt đầu tăng từ tháng 3 khi rủi ro từ thị trường toàn cầu gia tăng, đặc biệt khi nguy cơ chiến tranh thương mại Mỹ – Trung nhen nhóm đe dọa sự ổn định kinh tế quốc tế.
Tính tới hết tháng 10, lợi suất trái phiếu phổ biến tăng khoảng 20bps – 30bps so với tháng trước. So với cuối năm 2017, các kỳ hạn ngắn dưới 5Y đã vượt hơn 40bps, trong khi các kỳ hạn dài 10Y và 15Y chưa vượt.
Thị trường trái phiếu sơ cấp cũng phản ánh xu hướng tăng nhưng so với cuối năm 2017, mặt bằng lãi suất trúng thầu vẫn thấp hơn khoảng 30bps.
KBNN đang nắm quyền kiểm soát diễn biến thị trường sơ cấp bởi nhu cầu huy động TPCP không cao trong bối cảnh giải ngân vốn đầu tư công chậm. Ước tính trong 10 tháng đầu năm, giải ngân vốn đầu tư từ nguồn NSNN mới đạt 57.8% kế hoạch của Chính phủ (giảm so với mức hoàn thành 59.1% cùng kỳ năm 2017). Riêng giải ngân vốn TPCP mới đạt hơn 30%.
Với tiến độ giải ngân này, KBNN đã điều chỉnh kế hoạch phát hành TPCP năm 2018, giảm từ mức 200 nghìn tỷ đồng ban đầu xuống 175 nghìn tỷ đồng, cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng các kỳ hạn 7, 20 và 30 năm trong khi nâng mạnh kỳ hạn 10 và 15 năm lên 115 nghìn tỷ và chiếm tới 65% tổng danh mục.
Tổng giá trị trái phiếu phát hành từ đầu năm đạt 127 nghìn tỷ đồng, hoàn thành 73% kế hoạch. Nếu tính cả 15 nghìn tỷ phát hành cho BHXH, tổng giá trị phát hành mới đạt 142 nghìn tỷ đồng, giảm mạnh so với mức 210 nghìn tỷ cùng kỳ năm 2017. Ngoài lý do giải ngân đầu tư công chậm, một lý do khác khiến phát hành thấp là lượng đáo hạn trong 10 tháng 2018 chỉ là 27 nghìn tỷ so với 85 nghìn tỷ cùng kỳ 2017. Tổng khối lượng phát hành ròng trong 10 tháng giảm khoảng 10 nghìn tỷ so với cùng kỳ, cho thấy việc phát hành TPCP trong năm nay không ảnh hưởng đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Áp lực trả nợ gốc sẽ tăng trong năm 2019 với ước tính có khoảng 115 nghìn tỷ trái phiếu đáo hạn so với 51 nghìn tỷ trong năm 2018. Với áp lực này, nhiều khả năng xu hướng lãi suất sẽ khó đảo chiều trong ngắn hạn.
Thị trường chứng khoán
VNIndex giảm mạnh do tác động từ yếu tố ngoại, phái sinh lại gia tăng thanh khoản
Sau giai đoạn tăng điểm ổn định từ giữa tháng 7 đến hết quý 3, thị trường chứng khoán bắt đầu xu hướng điều chỉnh sâu từ đầu tháng 10. Đóng cửa ngày 31/10, VN Index giảm -11.19% MoM, rơi về ngưỡng 914.76 điểm. Đáng chú ý, phiên 11/10 là phiên giảm điểm mạnh nhât của chỉ số kể từ đầu năm 2018, với mức điều chỉnh là -4.84%.
Nguyên nhân khiến cho VN Index sụt giảm là những tác động từ thị trường thế giới, xuất phát chủ yếu từ Mỹ và Trung Quốc. Kỳ vọng lạm phát khiến lợi tức trái phiếu Mỹ tăng và kéo chỉ số S&P 500 giảm -7.26% trong tháng 10. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và những biểu hiện “thấm mệt” đầu tiên của Trung Quốc cũng khiến Shanghai Composite mất -6.6%.
Thanh khoản của thị trường cơ sở duy trì ở mức thấp khi diễn biến của các chỉ số không thuận lợi. Giá trị giao dịch bình quân của HOSE đạt 5.3 nghìn tỷ đồng, tuy nhiên nếu loại trừ giao dịch thỏa thuận đột biến tại MSN và VIC (phiên 2/10 và 5/10) thì thanh khoản bình quân chỉ đạt 4.5 nghìn tỷ đồng (giảm -3.5% MoM). Tính trên cả 2 sàn HOSE và HNX, tổng GTGD đạt mức 5.2 nghìn tỷ đồng (-4.21% MoM).
Ở chiều ngược lại, thị trường phái sinh thu hút dòng tiền sau khi giao dịch kém sôi động trong phần lớn quý 3. Khối lượng giao dịch bình quân trong tháng 10 đạt 110,938 HĐ/phiên, tăng tới +35.3% MoM tương ứng với mức tăng +14% so với trung bình quý 3. Giá trị giao dịch cũng tăng tương ứng +29.6% và +12.33%, lên ngưỡng 10.2 nghìn tỷ đồng/phiên. Như vậy, trong tháng 10, thanh khoản của thị trường phái sinh cao gần gấp đôi so với thị trường cơ sở.
Khi VN Index hồi phục trở lại trong những phiên cuối tháng 10, thanh khoản trên thị trường phái sinh cũng bắt đầu sụt giảm. Giá trị giao dịch hợp đồng tương lai giảm về mức 10 nghìn tỷ đồng vào ngày 31/10 từ mức 14 đến 16 nghìn tỷ đồng/phiên trong những ngày trước đó. Đây là phiên giao dịch mà VN30 Index đã tăng tới +3.15%.
Sau khi mua ròng trong tháng 9, NĐTNN đã bán ròng hơn 2.63 nghìn tỷ đồng qua kênh khớp lệnh trên HOSE trong tháng 10. Xu hướng tương tự diễn ra tại sàn HNX với 30 tỷ đồng giá trị bán ròng. Trong khi đó kênh thỏa thuận chứng kiến giao dịch đột biến tại MSN với giá trị 11.38 nghìn tỷ đồng.
KQKD quý 3, một lý do khiến nhiều cổ phiếu thiếu động lực?
Quay lại thời điểm 3 tháng trước, các doanh nghiệp niêm yết công bố LNST quý 2 tăng trưởng cao, tạo động lực hỗ trợ cho VN Index từ đáy đi lên. Giá cổ phiếu của nhiều công ty trong nhóm VN30 vận động đồng pha với mức tăng trưởng của lợi nhuận sau thuế.
Tuy nhiên bước sang tháng đầu quý 3, nhiều doanh nghiệp trong rổ VN30 dù công bố KQKD tích cực nhưng giá cổ phiếu vẫn giảm. VJC, VIC, GAS, MBB, PNJ đều ghi nhận tăng trưởng LNST với tỷ lệ từ +40% trở lên tuy nhiên giá các cổ phiếu trên đều giảm từ -5% đến -14% MoM.
Đối với các doanh nghiệp VN30 bị giảm lợi nhuận, việc giảm giá là điều khó tránh khỏi. LNST Q3 của VPB, MSN, PLX giảm lần lượt -26.1%, -3.2% và -0.4% trong khi giá cổ phiếu giảm -21.2%, -10% và -3.63%.
Tính đến hết ngày 02/11 đã có 617/748 doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh quý 3 với tăng trưởng LNST đạt gần 24% YoY, giảm đáng kể so với quý 2 (27% YoY) và quý 1 (32% YoY).
SSI Research