Thứ nhất: Nhu cầu dệt may thế giới được dự báo tăng trưởng 3.5%/năm trong giai đoạn 2019 – 2020 (theo Statista) hỗ trợ tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam.
Thứ hai: Tăng trưởng xuất khẩu dệt may duy trì ở mức cao nhờ giành được thị phần từ các thị trường khác.
Thứ ba: Các hiệp định thương mại EVFTA, CPTPP và chiến tranh thương mại Mỹ Trung tạo cơ hội cho dệt may Việt Nam.
ĐIỂM NHẤN ĐẦU TƯ
- Nhu cầu dệt may thế giới được dự báo tăng trưởng với 3.5%/năm trong giai đoạn 2019 – 2020 hỗ trợ tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam (trên 90% xuất khẩu).
- Tăng trưởng xuất khẩu dệt may duy trì ở mức cao nhờ giành được thị phần từ các thị trường khác: thị phần tăng từ 2.9% (2010) lên 5.6% (2017), còn dư địa để cải thiện.
- Các hiệp định thương mại EVFTA, CPTPP và chiến tranh thương mại Mỹ Trung tạo cơ hội cho dệt may Việt Nam giành thêm thị phần, đặc biệt tại Mỹ và EU.
- Yếu tố rủi ro: chi phí nhân công (lương cơ bản 2019 tăng 7%), phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.
- Đánh giá cơ hội tăng trưởng sẽ bù đắp được các rủi ro đối với ngành trong năm 2019, định giá hiện tại tương đối hấp dẫn so với khu vực
NĂM 2019: VẬN HỘI DỆT MAY – KỲ VỌNG BỨT PHÁ
Năm 2018 đánh dấu là năm tiền đề của ngành dệt may
- Kim ngạch xuất khẩu đạt 36,164 tỷ USD, tăng trưởng hơn 16% (tương đương hơn 5 tỷ USD) so với năm 2017, là một trong 3 nước xuất khẩu dệt may cao nhất thế giới.
- Với đà tăng trưởng tích cực của năm 2018, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu năm 2019 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 40 tỷ USD, tăng khoảng 14% – 15% so với năm 2018.
Năm nay sẽ là một năm nhiều cơ hội đối với ngành Dệt may. Đây là giai đoạn ngành cần sự bứt phá chuyển mình để tiến lên một vị thế mới, một vai trò mới trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu
Thứ nhất: Nhu cầu dệt may thế giới được dự báo tăng trưởng 3.5%/năm trong giai đoạn 2019 – 2020 (theo Statista) hỗ trợ tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam.
Theo Statista, nhu cầu hàng may mặc thế giới sẽ đạt 1,650 tỷ đồng vào năm 2020, doanh thu hàng may mặc tại một số thị trường lớn như Mỹ đạt 334.2 tỷ USD (+2.5% YoY), Top 10 thị trường lớn nhất tại EU đạt 291.5 tỷ USD (+0.4% YoY). Khoảng 90% sản xuất dệt may của Việt Nam phục vụ xuất khẩu, do đó tăng trưởng ngành có quan hệ mật thiết với nhu cầu hàng dệt may toàn cầu.
Thứ hai: Tăng trưởng xuất khẩu dệt may duy trì ở mức cao nhờ giành được thị phần từ các thị trường khác.
Thị phần của dệt may xuất khẩu Việt Nam tăng mạnh từ 2.9% (2010) lên 5.6% (2017) nhờ vào (1) Nâng cao năng lực cạnh tranh nội tại; (2) Sự dịch chuyển sản xuất do tái cơ cấu kinh tế của Trung Quốc – công xưởng dệt may của thế giới.
Đánh giá Việt Nam còn dư địa để giành thêm thị phần trong xuất khẩu dệt may thế giới nhờ:
(1) Mức chênh lệch tiền lương công nhân dệt may của Việt Nam và các quốc gia được đánh giá là có chi phí nhân công rẻ hơn đang ngày càng thu hẹp;
(2) Chênh lệch về thuế của hàng dệt may Việt Nam với Bangladesh, Campuchia…tại một số thị trường (do các quốc gia nêu trên được hưởng thuế GSP ưu đãi khi xuất khẩu sang một số thị trường) được xóa bỏ nhờ các FTA được ký kết mới (VD: EVFTA).
(3) Môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện, vị trí thuận lợi gần với Trung Quốc giúp cho dịch chuyển sản xuất dễ dàng hơn.
Thứ ba: Các hiệp định thương mại EVFTA, CPTPP và chiến tranh thương mại Mỹ Trung tạo cơ hội cho dệt may Việt Nam.
(1) Hiệp định CPTPP (hiệu lực từ 14/1/2019) tác động không đáng kể trong ngắn hạn, nhưng mở ra cơ hội trong dài hạn. Mặc dù được đánh giá không có tác động lớn do quy tắc về nguồn gốc xuất xứ “từ sợi trở đi” khó đáp ứng và 7/10 quốc gia thành viên hiện tại đã có các hiệp định thương mại với Việt Nam, các hiệp định mở ra cơ hội cho việc khởi động lại các dự án sợi dệt nhằm đón đầu TPP trong giai đoạn trước cũng như tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Canada.
(2) Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA) được đánh giá có tác động tích cực trong trung – dài hạn. EVFTA đã hoàn tất rà soát pháp lý và sẽ trải qua quá trình phê chuẩn nội bộ của các thành viên, dự kiến có thể được thông qua sớm nhất vào kỳ họp Quốc hội tháng 6- 7/2019 và có hiệu lực sau 1 tháng. EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của dệt may Việt Nam, với 42.5% dòng thuế áp dụng đối với các SP dệt may sẽ giảm về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, còn lại sẽ giảm về 0% theo lộ trình 3-7 năm sẽ giúp hàng hóa Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn so với Campuchia hay Bangladesh (hưởng thuế suất GSP ưu đãi 0%). Quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” của EVFTA cũng như việc tính gộp nguyên phụ liệu có nguồn gốc từ quốc gia thứ 3 có chung FTA với cả Việt Nam và EU (Hàn Quốc) cũng thuận lợi hơn cho các DN Việt Nam so với CPTPP.
(3) Chiến tranh thương mại Mỹ Trung không phải nguyên nhân trực tiếp nhưng sẽ hỗ trợ cho xu hướng dịch chuyển sản xuất hàng hóa dệt may từ Trung Quốc sang Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, đặc biệt nhóm hàng may mặc từ Trung Quốc sang Mỹ liên tục giảm kể từ năm 2016 là dấu hiệu cho một sự dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc đến từ các yếu tố cơ bản hơn là tác động nhất thời từ căng thẳng thương mại. Sau Trung Quốc, Việt Nam là ưu tiên tiếp theo của các DN Mỹ (theo khảo sát trong US Fashion Industry Study, 2017), điểm đến của đơn hàng may mặc chuyển từ “China Plus Many” sang “China Plus Vietnam Plus Many” sẽ là cơ hội lớn cho dệt may Việt Nam. Ước tính nếu lấy được 1% thị phần hàng may mặc Trung Quốc xuất sang Mỹ, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng 70%.
RỦI RO
- Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với một số rủi ro hiện hữu về chi phí nhân công và việc phụ thuộc lớn vào xuất khẩu. Về chi phí nhân công, lương cơ bản 2019 được điều chỉnh tăng 7%, mức lương tối thiểu vùng cũng tăng 5% – 6% sẽ tạo áp lực chi phí lên các DN.
- Về đơn hàng xuất khẩu, chúng tôi cho rằng trong các điều kiện hiện tại đơn hàng xuất khẩu sẽ vẫn tiếp tục tăng, tuy nhiên Việt Nam là một quốc gia có thặng dư thương mại với Mỹ tương đối cao tại một số nhóm hàng trong đó có dệt may nên cũng không thể loại trừ khả năng Mỹ có thể áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với Việt Nam.
- Bên cạnh đó, khâu dệt nhuộm trong nước chưa phát triển tương xứng cũng sẽ là yếu tố rủi ro khi không thể đáp ứng được quy tắc xuất xứ, bỏ lỡ lợi thế từ các hiệp định thương mại.
QUAN ĐIỂM ĐẦU TƯ – KHẢ QUAN
- Đánh giá năm 2019 tiếp tục là năm khởi sắc của xuất khẩu dệt may dựa trên những phân tích về nhu cầu dệt may toàn cầu và tại một số thị trường nhập khẩu lớn cũng như những lợi thế của dệt may của Việt Nam, động lực đến từ các hiệp định thương mại tự do và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung.
- Cho rằng ngành vẫn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, mặc dù có thể thấp hơn 2018 bởi mức high-base đạt được trong năm vừa qua. Trong khi đó, chi phí nhân công tăng sẽ không phải rủi ro quá lớn đối với các doanh nghiệp như có thể thấy trong kết quả kinh doanh năm 2018.
- Mức định giá của ngành dệt may hiện tại tương đối hấp dẫn so với khu vực với mức P/E trung vị là 6.6x (mức trung vị khu vực là 14x). Định giá của thị trường đối với cổ phiếu dệt may chưa có thay đổi đáng kể nếu đặt trong tương quan với tăng trưởng của ngành 1 – 2 năm gần đây, do đó kỳ vọng vào sự thay đổi mức định giá trong thời gian tới.
- Tuy nhiên, cơ hội không đến với tất cả các doanh nghiệp trong ngành. Đối với các doanh nghiệp niêm yết, đánh giá cao các công ty năng lực sản xuất lớn, có quy trình sản xuất từ sợi vải, có tập khách hàng tốt, và các dự án mở rộng đón đầu tăng trưởng.
CHỌN MẶT GỬI VÀNG – DOANH NGHIỆP HƯỞNG LỢI
1. TCM – ĐỘT PHÁ TỪ CHUỖI GIÁ TRỊ
- TCM là một trong số ít các DN dệt may niêm yết vận hành chuỗi giá trị sợi – dệt – may, đáp ứng các tiêu chí về nguyên tắc xuất xừ từ các FTAs mà Việt Nam đã ký kết (EVFTA, CPTPP…).
- Tăng công suất trong thời gian tới: công ty có kế hoạch sẽ nâng công suất đối với mảng vải thêm 17% và mảng may thêm 7% trong năm 2019 để đáp ứng tốt hơn các đơn hàng của đối tác.
- Khả năng cải thiện biên lợi nhuận trong tương lai nhờ: (1) nâng cao năng suất mảng may (đặc biệt tại NM Vĩnh Long, năm 2018 đã đạt trên 30 USD/người/ngày); (2) tăng tỷ trọng mảng vải (biên LNG > 20%) trong tổng doanh thu; (3) duy trì tỷ lệ biên LNG ở mảng sợi.
- TCM đang giao dịch ở PE 2018 và 2019 lần lượt là 9,1x và 6,8x. Giá mục tiêu 1 năm cho TCM là 30.500 đồng/cp. Nếu TCM có thể thu lại khoản thanh toán nào từ Sears, thì đây là yếu tố tích cực cho LN năm 2019 và cho giá cổ phiếu.
Các nguồn định giá tham khảo khác về TCM
2. TNG – THAM VỌNG NGÔI VƯƠNG
- Kỳ vọng gia tăng doanh số nhờ mở rộng năng lực sản xuất: TNG dự kiến sẽ tối đa hóa công suất sản xuất tại các nhà máy hiện tại, đồng thời xây dựng thêm 2 nhà máy TNG Phú Lương và TNG Võ Nhai, kỳ vọng sẽ hỗ trợ đáp ứng được nhu cầu gia tăng trong thời gian tới.
- Chuyển dịch phương thức xuất khẩu sang 2 mảng FOB và ODM có biên lợi nhuận cao hơn: TNG có bước chuyển dịch từ phương thức sản xuất truyền thống CMT sang hình thức FOB và ODM có biên lãi gộp cao hơn từ 8-25%.
- Các hiệp định thương mại sẽ là động lực cho ngành dệt may nói chung: Kỳ vọng khi hiệp định EVFTA chính thức được ký kết, ngành dệt may sẽ được hưởng lợi từ ưu đãi thuế quan, đặc biệt đối với TNG khi thị trường EU là thị trường xuất khẩu chủ lực với tỷ trọng từ thị trường nảy là 56%.
- Đánh giá cao TNG về năng lực sản xuất (10 NM với 209 dây chuyền may, quy mô lao động lớn nhất trong số các DN may niêm yết) và tập khách hàng (Decathlon (EU), The Children’s Place (Mỹ), Haddad ước tính đóng góp lần lượt 40%, 22% và 7% doanh thu).
- Động lực tăng trưởng của TNG trong thời gian tới đến từ việc mở rộng công suất nhà máy Đồng Hỷ thêm 18 chuyền may (+8%) trong năm 2019 và xây dựng nhà máy Võ Nhai (+32-36 chuyền may, +13-15% công suất) trong năm 2020.
- Định Giá Hấp Dẫn: Bằng phương pháp DCF và P/E (tỷ trọng 50% – 50%), mức giá hợp lý cho cổ phiếu TNG sẽ vào khoảng 22,705 đồng/ cổ phiếu, tương ứng với mức P/E kỳ vọng là 6.4x.
3. MSH – May Sông Hồng
Năm 2018: MSH gần đây đã công bố ước tính KQKD sơ bộ năm 2018, trong đó doanh thu và lợi nhuận trước thuế đạt 3,95 nghìn tỷ đồng (+ 19% YoY) và 410 tỷ đồng (+ 77,3% YoY). Như vậy, lợi nhuận ròng ước tính đạt 330-335 tỷ đồng (~ + 65% YoY). Những kết quả này vượt ước tính trước đây của chúng tôi và cũng vượt 45% kế hoạch lợi nhuận ròng của công ty.
Tổng quan về doanh thu như sau: Doanh thu CMT đạt 828 tỷ đồng (-4,1% YoY) (chiếm 21% tổng doanh thu); Doanh thu FOB đạt 2,7 nghìn tỷ đồng (+ 32% YoY) (chiếm 68,4% tổng doanh thu) và doanh số chăn ga gối đệm đạt 400 tỷ đồng (+ 10,2% YoY).
Kế hoạch năm 2019: Năm 2019, công ty đặt kế hoạch doanh thu CMT đạt 621 tỷ đồng (-25% YoY) và doanh thu FOB đạt 3,3 nghìn tỷ đồng (+ 24% YoY). Như vậy, tổng doanh thu theo kế hoạch là 4,2 nghìn tỷ đồng (+ 6,3% YoY) và LNTT theo kế hoạch là 450 tỷ đồng (10% YoY). Giả định thuế thu nhập doanh nghiệp là 18%, chúng tôi ước tính lợi nhuận ròng sẽ đạt 369 tỷ đồng (+ 10% YoY). Do đó, EPS 2019 ước tính ở mức 7.663 đồng (2018: 6.939 đồng).
Nhà máy SH10 mới, trong đó MSH sở hữu 51% cổ phần, sẽ xây dựng vào tháng 4/2019. Nhà máy dự kiến bắt đầu hoạt động vào tháng 4/2020 và ước tính đóng góp lên tới 30 triệu USD doanh thu FOB mỗi năm khi đạt công suất tối đa. Tổng chi phí cho dự án này ước tính là 368 tỷ đồng, trong đó chủ yếu tài trợ bằng nợ vay (~ 70%). Trong khi đó, việc di dời nhà máy sẽ trì hoãn cho đến cuối năm 2020.
Quan điểm đầu tư: Với mức giá hiện tại là 44.300 đồng / cổ phiếu, MSH đang giao dịch ở mức PE 2019 là 5,8x. Chúng tôi nhắc lại khuyến nghị MUA cho cổ phiếu, với giá mục tiêu 1 năm là 57.500 đồng/ cổ phiếu (tăng 30% so với giá hiện tại) dựa trên mức PE mục tiêu là 7,5x. Chúng tôi sẽ cung cấp phân tích chi tiết khi công ty công bố báo cáo tài chính mới nhất.
Các nguồn định giá tham khảo khác về MSH
Nguồn: SSI Research, Tổng hợp